Gió Bắc về sớm. Trời tháng chín lặng lẽ nhưng lạnh buốt, như một khúc bi ca kéo dài mãi trong lòng người. Tại Dung Uyển, trên tường thành cao nhất, chiếc đèn lồng đỏ được treo suốt ba trăm sáu mươi lăm ngày vẫn chưa từng tắt, dù gió gào, mưa dội. Người dân gọi nó là Tâm Đăng Dung Tướng – ngọn đèn của lòng người.
Người già kể rằng, ngọn đèn đó do chính Thiên Trạch thắp lên vào ngày đưa tang Dung Lam. Dù bị triều đình ngăn cấm tổ chức quốc tang, dân chúng vẫn tự tay gác đèn trước cửa nhà, viết ba chữ Tướng Của Dân bằng mực than và treo cờ trắng. Một người thợ rèn ở Tế Châu đã làm khung sắt cho chiếc đèn đó, không bao giờ gỉ sét. Cô gái mù ở Đông Lâm đã thêu câu đối bên cạnh bằng chữ nổi, dù không ai dạy cô viết. Còn người con trai từng được nàng cứu ở chiến trường năm xưa, đã tự chặt một ngón tay để khấn nguyện cho đèn không bao giờ tắt.
Thiên Trạch đứng trước miếu thờ nàng, không mặc long bào, chỉ khoác áo bào trắng thêu hoa lan tím – loại hoa nàng từng thích. Trước bàn thờ đơn sơ là bài vị khắc chữ: Dung Lam – Hộ quốc Bạch y. Không có danh hiệu hoàng gia, không phong hậu, không hậu cung. Nhưng dân gian lại kính xưng nàng là Chiêu Hậu Vô Phong – hậu không ngai.
Chàng mang đến một mảnh ngọc bội cũ – vật nàng từng để quên trong lần đầu gặp mặt ở đại điện. Bên dưới mảnh ngọc, một mảnh giấy bạc cũ kỹ được đặt vào tay tượng gỗ của nàng. Đó là nét bút nàng từng viết: “Dẫu trái tim này cháy rụi, ta cũng nguyện đốt nó để soi đường cho người.”
Sau khi Dung Lam mất, Thiên Trạch rút dần khỏi triều chính. Những đại thần từng phản nàng bị điều tra, một nửa bị cách chức, một nửa tự xin cáo lão. Nhưng chàng không trị tội ai bằng pháp luật, chỉ dùng một đạo dụ rằng: “Người có công nên được tưởng nhớ, người từng sai nên có cơ hội sửa.”
Chàng thành lập Tâm Y Cục, dạy y thuật dân gian, dốc ngân khố mở hàng loạt thảo đường cho thường dân. Lệnh xuất binh bị kiểm soát chặt chẽ. Việc phong quan, dùng người được xét theo năng lực, không xuất thân. Nhiều thư sinh vô danh được trọng dụng, còn dòng dõi quý tộc nếu vô năng sẽ bị đào thải. Thiên hạ bắt đầu gọi triều đại ấy là Niên Độ Tâm Chính – thời kỳ của trái tim ngay chính.
Ba năm sau ngày nàng mất, có người hỏi chàng:
"Hoàng thượng có từng yêu nàng không?"
Thiên Trạch không đáp. Chỉ đặt tay lên ngực áo – nơi chôn bức thư cuối cùng nàng gửi:
“Nếu có kiếp sau, ta không nguyện gặp chàng trong cung cấm, cũng không muốn cạnh ngai vàng. Chỉ mong là dân thường, được cùng chàng ngồi bên đèn, uống một chén trà nóng giữa ngày đông.”
Câu chuyện về Dung Lam lan ra khỏi Đại Tề. Năm nước lân bang đều gửi sứ giả tới viếng khi miếu nàng hoàn thành. Một vị tăng từ Tây Vực đến, chỉ lặng lẽ đốt hương rồi nói:
"Có người sống cả đời chẳng ai nhớ tên. Có người chết đi mà thiên hạ lưu truyền. Dung Lam là người như thế."
Tại vùng quê Vân Giang, nơi từng có một trạm quân y nhỏ nàng lập ra, một bé gái mồ côi được người dân nuôi nấng, đặt tên là Lam Tâm. Cô bé đó lớn lên, học y từ những ghi chép nàng để lại, từng bước trở thành y quan, rồi y học sĩ đầu tiên trong lịch sử không mang dòng dõi quý tộc.
Người ta gọi cô là Hậu Ảnh Dung Tướng.
Vào năm thứ mười hai sau ngày nàng mất, một trận đại hạn khiến miền Nam nứt nẻ, lúa không trổ. Nhưng Tâm Y Cục đã kịp truyền đi hàng trăm đơn thuốc giải độc nắng, cứu hàng vạn sinh mạng. Khi dân chúng kéo đến tạ ơn, người đứng đầu cục chỉ nói:
"Chúng tôi chỉ là người giữ đèn. Ánh sáng đó là của người đã từng thắp lửa."
Thiên Trạch về già lập chiếu thoái vị, truyền ngôi cho con trai thứ hai – người không giỏi binh lược nhưng nhân hậu, gần dân. Trước khi lui về ẩn cư, chàng để lại một hàng chữ cuối trong ngự thư:
"Trường đêm không tắt, vì có người từng đốt mình làm sáng thiên hạ."
Từ đó, ngọn đèn đỏ treo ở Dung Uyển trở thành biểu tượng bất diệt của chính nghĩa và nữ tử không cần ngai vàng vẫn có thể làm nên sử sách.
Còn tiếp...