Những dòng người tấp nập đi trên phố, đông vui y như ngày hội. Gió trời nổi lên mang theo một chút dư vị của hoàng hôn trải đều khắp nẻo đường. Tôi và chàng thiếu niên vừa đi, vừa nói chuyện phiếm. Quả thật càng nhìn càng thấy cậu ta giống y như đúc ngài Winberg lúc còn trẻ, chỉ khác ở chỗ cậu ta niềm nở và trông có vẻ tự tin hơn ngài ấy rất nhiều…
Cậu ta tự giới thiệu bản thân mình tên Johan, nhà của cậu cũng nằm ở trong khu chợ này và nhiệm vụ thường ngày của chàng thiếu niên chính là truy bắt những kẻ trộm vặt.
Chúng tôi đi được một đoạn cách khu ẩm thực cũng khá xa, Johan bất ngờ vui vẻ chỉ tay về phía trước, nơi ngôi nhà có cái mái hiên màu đỏ hơi đưa ra và bảo tôi hãy đợi cậu ấy một chút. Tôi đọc kĩ tên bảng hiệu là cửa hàng giày Dilys. Tôi theo chân cậu đi vào, một tiếng “keng” rất nhỏ từ chiếc chuông vang lên ở phía cánh cửa. Trước mắt tôi là những chiếc kệ thuỷ tinh trưng rất nhiều giày với các mẫu mã khác nhau. Lúc này, Johan lễ phép gọi thật to.
“Bà ơi, con về rồi.”
Từ phía xa sau tấm rèm vọng ra tiếng nói già dặn, yếu ớt đáp lại.
“Johan về rồi đấy à? Hôm nay, bà có nấu món canh khoai mà con thích nhất đây này.”
“Thật vậy ạ?”
Tôi đi một vòng dạo quanh cửa tiệm nhỏ, ánh mắt tôi bất chợt bị thu hút bởi đôi giày màu vàng kim đặt ở trong chiếc tủ kính, tôi nhớ bản thân đã từng nhìn thấy nó một lần… À! Phải rồi… Trông nó giống y hệt như chiếc giày mà ngài Winberg từng tặng cho Jully. Tôi run run chạm lên tay mặt kính, không thể tránh khỏi những nghẹn ngào dâng lên cuống họng.
Johan đưa mắt nhìn, trông thấy dáng vẻ thất thần của tôi liền tiến đến bên cạnh.
“Đôi giày trưng trong này không bán được đâu, nó là kỉ niệm của bà tôi đấy.”
“Kỉ niệm sao?” Tôi xoay mặt nhìn cậu, chỉ thấy trong ánh mắt đầy nhiệt huyết của cậu bất chợt loé lên một tia ngưỡng mộ.
Đó là câu chuyện mà tôi cũng từng được nghe cách đây khá lâu rồi. Có một chàng thiếu niên nọ vô tình nhìn thấy đôi giày trông thật bắt mắt có màu vàng kim được cô chủ nhỏ bày bán, thế là anh ta quyết định phải mua cho bằng được đôi giày đó để tặng cho cô em gái của mình. Người chủ tiệm vì cảm mến nên đã quyết định tặng lại nó cho chàng thiếu niên nhưng trước khi rời đi, anh ta đã để lại trên chiếc bàn mười lăm đồng Delta.
Tôi nhìn kĩ bên cạnh đôi giày kia có một chiếc lọ thuỷ tinh nhỏ chứa đựng những đồng tiền Delta của những năm về trước vẫn còn mới toanh. Cô chủ tiệm đã dùng một loại ma thuật để bao bọc chúng. Điều đó chứng tỏ, cho dù ngày qua ngày cứ thế trôi đi, tình cảm mà cô chủ tiệm giày dành cho chàng thiếu niên năm ấy vẫn giống y như lần đầu gặp gỡ…
Lúc này, cái rèm cửa tự nhiên vén ra mà chẳng có ai tác động vào, một cụ bà tóc bạc phơ ngồi trên chiếc xe lăn chầm chậm tiến ra, đôi mắt bà đã chuyển sang màu rất đục dường như không còn nhìn thấy được những thứ tươi đẹp trên thế gian này nữa. Bà ấy đẹp một cách phúc hậu, có lẽ thời niên thiếu trông bà còn sắc sảo hơn.
“Johan hôm nay dẫn bạn về chơi đó hả?“
“Cô ấy cũng không hẳn là bạn của con. Thật ra là con vừa giúp cô ấy bắt trộm và cô ấy cũng là người từ thành phố khác đến nữa, nên…” Johan e thẹn gãi gãi đầu. “Con có ý tốt dẫn cô ấy đi tham quan thành phố.”
“Ha ha ha, sao không giới thiệu một chút về người bạn này cho ta nhỉ?”
Johan miễn cưỡng đưa tay về phía tôi, nói.
“Cô ấy tên là Olivia, là du khách đến từ thành phố phía Đông.”
Tôi điềm đạm cúi người, cất giọng.
“Con chào bà. Con tên là Olivia.”
Người ngồi trên xe lăn giống như cảm giác được điều gì đó toả ra từ tôi, trên khuôn miệng tự nhiên nở một cười hoài niệm.
Bà ân cần mời tôi ngồi xuống chiếc ghế sô pha được đặt ở giữa cửa tiệm. Bà rót trà mời tôi, vui vẻ tiếp đón như người trong nhà vậy.
Bà ấy tên là Rataly, có lẽ từ giây phút nhìn thấy đôi giày ánh kim và chiếc lọ thuỷ tinh thì tôi cũng ngầm đoán ra được tên bà rồi. Đôi mắt này của bà chính là sự sống của Johan. Khi cậu bé được sinh ra đã có một cơ thể ốm yếu, bị chính cả cha ruột của mình là lão Juter từ bỏ. Sau đó, Rataly mang cậu về chăm nom, thậm chí hi sinh cả đôi mắt để đổi lấy sự sống cho cậu bé.
Bà thở dài một hơi, tôi không thể nghe rõ được trong thanh giọng đó là giận dỗi người cha vô tâm kia hay là thương tiếc vì đứa cháu trai của mình phải chịu cảnh có cha như không nữa. Tôi chỉ biết chuyển đến ngồi cạnh bà, áp tay lên đôi bàn tay gầy guộc, nhăn nheo. Tôi thương cảm mà an ủi bà.
“Con thấy bà chắc là phải rất tự hào về Johan. Cậu ấy bây giờ đã trở thành một chàng trai khoẻ mạnh và còn làm được rất nhiều việc tốt nữa.”
Khi đi dạo cùng Johan, trên bất kì đoạn đường nào ở trong khu chợ sầm uất ấy, tôi luôn có thể thấy được sự yêu quý của những người buôn người bán nơi này dành cho cậu. Họ niềm nở chào cậu với nụ cười ngọt ngào.
“Ôi, Johan đấy à? Hôm nào ghé nhà, ta đãi ăn nhé.”
“Trời ơi, tiếc thật đó! Ta còn định sẽ gả con gái ta cho cậu đấy, Johan à. Ha ha ha.”
“Johan à, cảm ơn nha. Nhờ có cậu mà cửa tiệm rèn của tôi làm ăn phát đạt hơn hẳn.”
Rataly lương thiện chợt bật cười khi nghe tôi kể về những yêu thương mà người ta dành cho Johan. Bà vui vẻ gật đầu nhưng trong ánh mắt đã ngân ngấn lệ. Bởi vì bà biết Johan bé nhỏ kia đã lớn rồi, bà biết rõ hơn ai hết những việc mà đứa cháu của bà đã làm để giữ được sự yên bình và an toàn cho khu chợ.
“Olivia à, con thật biết cách an ủi người khác. Con dịu dàng và tình cảm giống như ngài ấy vậy.” Bà thở phào nhẹ nhõm, ánh mắt bà chăm chú về một hướng vô định rồi bà tự dưng mỉm cười nhưng nụ cười ấy lại như thể sắp khóc.
Rataly từng là một cô gái tràn đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ. Xuất thân từ một gia đình chuyên gia công giày dép nữ nổi tiếng. Sau này, cô được ba mẹ truyền lại cho cửa tiệm giày Dilys. Mãi cho đến giờ tôi mới biết đôi giày búp bê có màu vàng ánh kim chính là lấy cảm hứng từ chàng thiếu niên tên Joshe Winberg ấy. Còn ngài thì vĩnh viễn không thể nhớ ra được cô gái trẻ mà ngài dốc lòng cứu thoát sau biến cố sạt lở núi rất lâu về trước.
Khi con người đứng giữa bờ vực của sự sống và cái chết thì họ sẽ trở nên yếu đuối, sợ hãi sự chết chóc và khao khát sống sót sẽ trở nên mãnh liệt. Rataly vốn có một cơ thể nhỏ bé chẳng thể luồn lách qua nổi đám người đang chạy tán loạn kia. Cô bị đẩy va vào vách núi, một phần đất khô cằn bị tác động liền rung chuyển và rơi xuống. Joshe Winberg chạy đến từ sau dùng thân thể che chắn cho cô gái. Giữa phút giây sinh tử gần kề, Rataly nhìn thấy được một ánh hào quang toả ra từ người thiếu niên ấy, đôi mắt màu nâu pha lẫn chút một chút vàng khiến cho con tim cô rơi vào trạng thái hỗn loạn.
“Không sao chứ?”
Rataly ngại ngùng lắc đầu, đáp.
“Tôi… Tôi không sao. Còn anh?… Vết thương của anh…”
“Đừng bận tâm Tôi không sao đâu. Mau chạy thôi.”
Cô phát hiện một bên chân của anh không thể cử động như bình thường, từng bước khập khiễng cứ thế bảo hộ cô an toàn ra khỏi đám đông. Rataly nhìn thấy có hai người bạn hốt hoảng chạy đến bên cạnh chàng thiếu niên, một người trông rất hung hăn, người còn lại thì rất xinh đẹp.
“Cô gái ấy có màu tóc giống với ngài, là màu nâu của gỗ đàn hương. Còn màu mắt cũng giống hệt ngài ấy.” Rataly điềm tĩnh kể lại.
Sau đó, cô vô tình nghe ngóng được cuộc trò chuyện giữa những người bạn đồng hành kia. Dường như đôi giày duy nhất của cô gái đã tặng lại cho một đứa trẻ nghèo ở thôn mà họ đã đi qua. Thời tiết thì cứ nóng lạnh thất thường, gót chân trần của cô gái theo từng ngày mà cũng bị nứt nẻ. Bởi vì thương em nên Joshe Winberg muốn dành dụm tiền để mua tặng cho em ấy một đôi giày.
“Jully à, chân của em có đau không?”
“Khi đến thành phố Freed, anh nhất định sẽ mua cho em một đôi giày.”
À… Hoá ra là như vậy… Màu vàng ánh kim là màu đại diện cho ngài ấy. Rataly chính là bởi thầm thương trộm nhớ mà mang những lời mà ngài đã nói kết thành một đôi giày búp bê có sắc vàng đẹp đẽ. Đó là lý do mà cô luôn trưng bày nó ở kệ bán trước cửa kính lớn, biết đâu một ngày khi anh đi ngang nơi này sẽ nhìn thấy nó và cô cũng sẽ được gặp lại anh…
“Có rất nhiều khách hàng vào hỏi ta về đôi giày đó, thậm chí họ trả cho ta một cái giá cao ngất ngưởng nhưng ta liền bảo với họ rằng ta không bán chỉ để trưng mà thôi. Ha ha ha.”
Rataly khi nhắc về chuyện quá khứ có thể cười vui như vậy, hạnh phúc như vậy. Tôi chắc là bà cũng chưa từng thấy hối hận vì đã trao hết yêu thương cho ngài.
Quả thật, thứ tình cảm đơn phương kia vừa đẹp đến xao xuyến lòng người nhưng cũng vừa đau đến xé nát cả tâm can… Tôi nhận ra cả cuộc đời của Rataly không tham vọng giàu sang, phú quý mà bà chỉ đợi một câu nói yêu từ chính người bà đã trao đi hết tâm tư, tình cảm.
Đáng tiếc thay… Sự chờ đợi của bà mãi chẳng thể được đáp lại. Còn người kia thì đã không còn trên thế gian này nữa…