Trong khu rừng u uất Bạch La, màn đêm bao phủ đen kịt cùng với tiếng kêu inh ỏi của động vật vất vưởng. Len lỏi đau đó, có ánh sáng lửa đỏ rực bốc khói nghi ngút.
Thần sói Kiết Tự hướng mắt nhìn lên bầu trời với mặt trăng tròn vọng đỏ như máu, kêu lên tiếng “hú” âm vang cả không gian này. Hóa thành người, hắn nhìn vào hình nhân để trên tản đá đó có khắc tên một người.
“Tại sao, ngài lại chết oan uổng thế chứ!”
Bất chợt, một nữ vị thần với khuôn mặt phúc hậu trong bộ trang phục màu trắng xuất hiện tại nơi này. Bà ôn tồn đáp:
“Muốn nó sống dậy sao?”
Hắn kinh ngạc nhìn bà, cúi đầu kính trọng đáp:
“Thần Nguyệt Dung.”
Đứng trước mặt Kiết Tự, là thần tái sinh Nguyệt Dung. Bà biết trần đời của người mà Kiết Tự muốn tái sinh như thế nào.
“Nó sống không sợ trời sợ đất, người người căm ghét chỉ vì xuất thân là quỷ, gây hoại nhân gian. Nhưng nó vốn dĩ đã có trái tim có máu có thịt chỉ là do chưa thấu hiểu hết lòng người nên phải gánh lấy hậu quả chết không toàn thây.”
Kiết Tự trong lòng trĩu nặng vì ngoài kia còn bao nhiêu mối thù chưa dứt. Tay hắn cầm lấy đèn lưu ly chứa một phần hồn phách, nhẹ giọng nói:
“Thần muốn ngài ấy sống dậy, mong thần Nguyệt Dung giúp đỡ.”
Trên tay bà hiện ra một cuốn Hiến cổ sinh đưa cho Kiết Tự, bà bảo:
“Nếu ngươi muốn thì thực hiện nó đi.”
Hiến cổ sinh là một loại tà thuật có từ xa xưa được truyền lại từ hàng nhìn năm trước, nhưng không được sử dụng vì tà thuật này sẽ gây rối loạn cả hai thế giới âm dương. Người dùng tà thuật sẽ dùng con búp bê là hình nhân thế mạng cho người đã chết ở thế giới bên kia.
Kiết Tự thực hiện tà thuật đó, mượn thân xác của thập hoàng tử Du Chan để hiến cho tà linh, khẩn cầu tà linh nhập xác. Tà linh đó chính là Hàn Nhật Thiên.
Hắn đã lập một khế ước giữa hoàng tử Du Chan và Hàn Nhật Thiên, hắn niệm:
“Hỡi các đấng siêu linh, hãy giúp thần đưa linh hồn của ngài trở về với thân xác đó. Hoàng tử Du Chan cũng đã chấp nhận khế ước mong muốn ngài ấy có thể giải nỗi oan nghiệt cho gia tộc và giải trừ ân oán mà cả hai đã chịu ấm ức. Con búp bê hình nhân sẽ là vật thế thân cho ngài ấy.”
Kiệt Tự cho máu của Du Chan nhuốm đỏ con búp bê. Bên ngoài, luồng gió gào thét kéo theo những chiếc lá khô bay xào xạc, ngọt lửa bỗng chốc tắt đi cái vèo.
“Hy vọng mọi thứ sẽ ổn!”
Và đấy là những gì đã diễn ra, người ngồi trong ngục đá lúc này là Hàn Nhật Thiên mang thân xác của Thập hoàng tử Du Chan.
Hắn phà ra hơi thở nhẹ, tay đập vào trán, bất lực than trách:
“Chết rồi thì để ta chết luôn đi, kêu ta sống dậy làm quái gì nữa? Là ta tự nguyện tìm đến cái chết cơ mà. Hận với thù gì nữa chăng.”
Kiết Tự đưa ra lệnh bài của Thập hoàng tử và chiếc mặt nạ hắn hay mang đưa cho Nhật Thiên, nhẹ giọng bảo:
“Từ hôm nay, thần sẽ gọi ngài là hoàng tử Du Chan. Ngày mai, ngài sẽ bị đưa đi hành hình lần nữa, nên những việc cần làm thần đã ghi chép ra đây vì thần còn có việc cần trở lại rừng Bạch La giải quyết.”
Hắn cầm lấy quyển sổ ghi chép của Kiết Tự, lật từng trang nhìn sơ qua. Chợt hắn suy nghĩ bâng quơ, đưa tay sờ lên khuôn mặt mình một lượt, nhưng mà, hắn không cảm thấy có vết sẹo lồi nào trên mặt. Hay có lẽ là do mặt hắn bị đánh nhìu đang sưng tấy nên hắn mới không rà thấy vết sẹo đó.
Lúc trước nếu là quỷ thì những vết thương này sẽ nhanh chóng lành ngay tức khắc nhưng giờ hắn phải tập làm quen với thân thể này.
Kiết Tự thấy vậy, kính trọng nói:
“Vết sẹo đó, ta đã nhờ thần tái sinh Nguyệt Dung dùng thuật xóa đi giữ lại dung nhan khi xưa của ngài.”
Hắn vẫn chưa thể hoàn hồn những gì đang xảy ra lúc này, từ nay hắn phải từ bỏ cái tên Hàn Nhật Thiên mà mang danh Thập hoàng tử Du Chan. Đúng là chuyện gì cũng có thể xảy ra cả mà.
“Đến lúc thần phải đi rồi, ngài ở lại bảo trọng và làm theo những gì như trong cuốn sổ mà thần đã đưa.”
Nói rồi, Kiết Tự biến mất trong nháy mắt để lại hắn với một mớ tơ vò rối bù.
…
Ngày hôm sau, hai tên quân lính đi vào đưa Du Chan đi ra ngoài tiếp tục chuỗi ngày tra khảo. Trên mặt hắn đeo cái mặt nạ che đi một bên mắt trái, cảm thấy khó chịu vô cùng.
Du Chan phà ra hơi thở mệt nhoài, cố gắng thích ứng với cơ thể thân tàn ma dại này. Một Hàn Tử Thiên Vương đội trời đạp gió, chẳng sợ đất sợ trời nay lại bị đổ oan, đánh đến nhục mạ thế này.
Hắn bị hai tên quân lính trói hai tay lên thanh sắt bằng dây xích, hai chân cũng vậy. Đưa ánh mắt dửng dưng nhìn tên quản ngục đang ngồi ở đằng xa kia, người kế bên, hắn đoán như trong cuốn sổ Kiết Tự là công chúa Hi Dư. Nàng ta đang nhìn hắn với ánh mắt sắc tựa như dao, nhìn cũng đủ hiểu muốn hắn chết quách đi nhưng sao hắn vẫn sống dai dẳng như thế.
Tên quản ngục nói lớn nghe chóe cả tai:
“Thập hoàng tử, sao ngài lỳ vậy nhỉ? Chỉ cần nói ra ai đứng phía sau thì ngài sẽ được tự do không phải bị tra khảo như thế này.”
Ánh mắt Du Chan bèn đảo nhìn công chúa Hi Dư, chợt nhếch môi cười cửa miệng sau đó tắt ngay. Nụ cười với cái nhìn của hắn khiến công chúa thoáng giật mình.
Bất chợt, một người phụ nữ trung niên đi lại ngồi ở sảnh chính, nhan sắc được trút tác, ăn mặc sang trọng quyền lực, chính là Hoàng hậu Chu Liễu. Bà đã lâu không gặp Du Chan từ lúc hắn rời khỏi cung thành đến Hành Chính Đông tu luyện. Biết hắn mất đi mẫu thân, bà đã thương hại hắn nhưng chuyện hắn hạ độc thái tử thì bà không thể để yên được.
Trong lòng bà bực bội nhưng không thể nổi giận tất thẩy ngay lập tức, bèn hạ giọng nói với quản ngục:
“Nó vẫn vậy không chịu nói tiếng nào hay sao?”
Quản ngục kính cẩn đáp lời:
“Ba ngày qua hắn không chịu lên tiếng nói một câu nào, hoàng hậu.”
Bà tức giận, gằn giọng nói:
“Nếu đã vậy thì hành hình nó đến chết đi!”
Ngay lập tức quản ngục đưa mắt ra lệnh cho quân lính bắt đầu thực hiện hành hình với hắn. Công chúa Hi Dư mỉm cười đắc ý.
Quân lính cầm lấy roi sắt nhọn hoắc, quất mạnh vào ngực hắn một phát trời giáng. Hắn không một tiếng la hét đau đớn nào mà lúc này hắn mở miệng nói:
“Ta bị oan… Ta bị oan…”
Quản ngục hạ lệnh cho quân lính dừng tay.
Hắn mếu máo, ngốc nga ngốc nghếch nói:
“Không phải công chúa Hi Dư mới là người cho thuốc độc vào trà hay sao? Ta… ta… đã thấy thái tử và công chúa nói lên to tiếng với nhau ở điện Hoa Minh. Thái tử thấy công chúa đưa cho nữ hầu viên ngọc quý và bảo rời khỏi cung, giữ bí mật chuyện hạ độc để hại quận chúa Tiểu Dao. Nhưng không ngờ người dâng trà lúc đó lại là ta. Thái tử vì muội muội của mình mà giết chết nữ hầu để chôn vui bí mật đấy…”
Hoàng hậu vội quay sang nhìn công chúa tức khắc. Hi Dư thoáng chốc lo sợ, ruột gan phèo phổi lộn tung cả lên. Nàng ấp a ấp úng phân bua:
“Không phải như vậy. Một người ngốc như hắn sao có thể nói như thế chứ?”
Công chúa Hi Dư tuyệt đối không ngờ tên ngốc đó lại có lá gan này. Mặt nàng lúc trắng lúc đỏ nói lớn:
“Hoàng tử, ngươi ăn nói sầm bậy rồi đấy.”
Du Chan ngây ngô đáng thương nói:
“Ta ngốc mà, ta chỉ biết dâng trà thôi, không biết thuốc độc là gì đâu.”
Lần này, hoàng hậu đã nhận ra, ba ngày qua hắn không chịu nói gì nay bỗng chợt lên tiếng, đầu óc cực kỳ tỉnh táo. Một kẻ ngốc như hắn, có tính tình giống trẻ con, mà trẻ con thường thấy gì sẽ nói đấy. Bà không kiềm chế nỗi, nhìn sang công chúa vừa lo vừa giận:
“Không sao cả. Có ta ở đây.”
Nói rồi, bà quay sang quản ngục bảo khẽ:
“Thả nó ra đi, coi như không có chuyện gì xảy ra cả. Ta sẽ có cách giải quyết êm xuôi.”
…
Du Chan được thả ra, lết cái thân tàn ma dại đi quanh cái phủ một cách lạc lối không biết đi đâu về đâu rồi hắn dừng lại ở hồ nước trong veo. Hắn tháo mặt nạ để qua một bên và rửa mặt để chiêm ngưỡng cái dung nhan này.
“Vẫn là khuôn mặt ta trước đó, vết sẹo của tên hoàng tử này cũng không còn.”
Bỗng chợt, có người đi ngang qua hắn vội đeo cái mặt nạ lên rồi đứng núp sau bụi hoa trà. Một giọng nữ trong trẻo vang lên:
“Hôm nay, có bàn tiệc nhỏ ở khuôn viên Châu La đấy. Bữa tiệc này do thái tử tổ chức để các hoàng tử tham gia có dịp gần gũi nhau, Tiểu Dao cũng được mời tới đó.”
Cung nữ Hiền Nhi tiếp lời:
“Nghe bảo, đêm nay sẽ làm lễ trừ khử ma quái cho nhà dân và trong cung nên hạn chế đi ra ngoài kẻo gặp ám khí và dạ quỷ nữa.”
Xem ra trong và ngoài cung gần đây không được yên ổn. Hôm nay cũng chính là ngày 30 tháng 12 âm lịch cũng là lúc để làm lễ trừ tà. Du Chan đứng nấp vừa bức lá vừa nghe, trên tóc dính đầy cánh hoa trà màu trắng.
Hiền Nhi than thở với cô cung nữ bên cạnh:
“Ta vừa mới làm một việc có tội. Công chúa Hi Dư kêu ta lấy trộm chiếc trâm cài hồ điệp từ chỗ Tiểu Dao cho công chúa mà không biết công chúa cần làm gì. Lòng ta tự dưng thấp thỏm thấy sợ…”
Hai người thôi nói chuyện nhanh chóng rời đi để đến chỗ Châu La.
Du Chan đi ra khỏi chỗ đám hoa trà đó, đi lần phía sau hai cô cung nữ về hướng tây nơi diễn ra yến tiệc. Trong tây viện, các vị hoàng tử cùng với các tiểu huynh đệ, tiểu thư khác đều vây kín để hội chuyện.
Mới đi được một bước vào sân, Du Chan đã nghe văng vẳng xì xào nói về chuyện của hắn.
“Vừa nhìn thấy, thập hoàng tử có chút giật mình sợ hãi vì cái mặt nạ trên mặt hắn thật nhưng mà hắn ngốc dễ bắt nạt cực kỳ…”
Một tiểu đệ vừa chỉ vào mặt vừa minh họa cái kiểu đeo mặt nạ của Du Chan.
Công chúa Hi Dư nhếch môi cười:
“Hắn kiểu điên điên khùng khùng đó mà…”
“E hèm…” Trùng Dương khàn giọng, đưa mắt nhìn Hi Dư vì nàng nói hơi quá lời.
Tiểu đệ khác lên tiếng:
“Nghe bảo hắn tu tiên, luyện võ thuật và từng gặp được thần Sói. Vậy đêm nay hắn có tham gia lễ trừ tà không nhỉ?”
Sau một hồi tu hết ly trà, Trùng Dương mới lên tiếng:
“Hắn ngốc nghếch như thế nếu tham gia sẽ phá hỏng tất cả.”
Thanh thiếu niên mặc đồ màu trắng nhíu mày hỏi công chúa Hi Dư:
“Thập hoàng tử còn quấy rầy đòi cưới công chúa nữa không vậy?”
Hi Dư nghiên miệng, trề môi đáp:
“Ai thèm cưới một tên xấu xí mà còn ngốc nghếch…”
Đang chưa nói hết câu, Du Chan lách vào đám đông, tiến thẳng vào trong, hăng hái phất tay nói:
“Chê ta xấu không thèm cưới à…”
Ngồi trên sảnh đường là thái tử Trùng Dương, ngồi bên dưới là công chúa Hi Dư, đối diện là các thanh thiếu niên, tiểu hoàng tử và tiểu thư. Trong đám đông, đột nhiên xông ra một tiểu tử đầu tóc rối bù hoa cỏ dính đày trên tóc, mặt mũi tèm hem với cái mặt nạ bằng gỗ xấu xí khiến cả phòng trở nên yên tĩnh hẳn.
Du Chan vờ như lờ đi cái không khí vắng lặng này, nghênh ngáo nói:
“Vừa rồi ai chê ta không thèm cưới, lỡ ngày nào đó thấy dung nhan ta đẹp rồi hối hận không kịp. Các ngươi chưa thấy dung nhan của ta mà…”
Hắn vừa cất lời thì chợt có đám thanh thiếu niên ngồi bên cười phì cả ra.
Trùng Dương cau mày, khó chịu trước sự xuất hiện của Du Chan. Hắn liền gằn giọng nói với thị vệ:
“Ai cho hắn vào đây hả? Mau kéo hắn về biệt phủ của hắn đi.”
Thị vệ vâng dạ, đi lại định bắt lấy Du Chan thì hắn ngồi phịch xuống sàn vùng vẫy như một đứa trẻ con. Nhìn thấy hắn như vậy, thị vệ còn thấy tức mà muốn đạp cho hắn một cái để hả vậy. Du Chan đá mắt nhìn những người xung quanh, Trùng Dương sầm mặt khó chịu còn Hi Dư mặt cứ hầm hầm như đưa đám khi bị hắn trêu chọc trước đó.
Hi Dư mắng:
“Cái tên điên! Còn không kéo hắn đi đi, cứng đầu thì đánh què chân hắn.”
Trong cung Bách Thảo này đều biết, thập hoàng tử Du Chan từ lúc mất mẫu thân, tinh thần không ổn định, ngốc nga ngốc nghếch, quậy phá đủ kiểu.
Du Chan chỉ về phía công chúa Hi Dư lên tiếng:
“Muốn ta về thì trả đồ cho ta đi, công chúa Hi Dư.”
Hi Dư không ngờ hắn có gan lớn đến vậy, còn dám xông đến tận đây để đòi đồ từ nàng. Mặt cô nóng hầm lên nói lớn giọng:
“Người nói tào lao gì vậy?Ai thèm lấy đồ của ngươi chứ hả?”
Du Chan tiếp lời:
“Công chúa không lấy thì chắc đi ăn cướp rồi, công chúa ranh lắm mà…”
Hi Dư nổi cơn thịnh nộ cả lên định cho hắn một trận thì Trung Dương cản lại. Hắn nói:
“Ngươi muốn gây sự phải không?”
Du Chan ngây ngô hỏi:
“Ủa, công chúa lấy đồ của ta. Giờ ta đòi lại có gì sai đâu mà gây với trả sự.”
Trùng Dương đang định lên tiếng, Hi Dư đã sốt rột đi nhanh lại tung cú đá chí mạng vào bụng Du Chan, khiến hắn ngã lăn quay cả ra.
Những người có mặt trong phòng này đều trố mắt nhìn Du Chan không khác gì đang tấu hài. Không ai đuổi được Du Chan đi làm cho yến tiệc nhỏ trở thành trò cười, Trùng Dương tức giận đến uất nghẹn, đành miễng cưỡng giãn hòa, thản nhiên nói:
“Chắc có lẽ công chúa chỉ vì thấy đồ vật đó đẹp nên mượn để xem thôi. Ngươi đừng hẹp hòi quá, có gì muội ấy sẽ trả lại cho ngươi bây giờ.”
Hi Du nhíu mày nhìn Trùng Dương, thốt lên:
“Gì cơ? Ta không lấy đồ gì của hắn cơ mà… Huynh để hắn uy hiếp ta thế sao, trước mặt bao nhiêu đồng môn thế này…”
Trùng Dương trừng mắt nhìn Hi Dư, ý bảo cô đừng gây rối thêm nữa, một người là đủ lắm rồi.
Du Chan tính tình cứng đầu, ngang tàn không chịu thôi:
“Trả cho ta… trả cho ta… chiếc trâm cài hình hồ điệp mà công chúa đang giữ đó đây…”
“Ôi trời, tức chết mất!” Hi Dư thở phào thật mạnh, cơn thịnh nộ trong người bộc phát, sẵn chân đạp vào ngực hắn lần nữa. Nàng gằn giọng nói lớn:
“Trâm cài hồ điệp đó là của ta. Người thật là trơ trẽn mà, sao nói ta ăn trộm của ngươi được hả, lưu manh.”
Ừ đúng, Du Chan là một tên lưu manh đấy nhưng chỉ là trước kia mà thôi. Hôm nay, hắn trở thành một kẻ ngốc, kẻ điên điên khùng khùng, la lối om sòm thì đã sao. Hắn gân cổ lên cãi:
“Trâm cài đó của công chúa? Công chúa ăn trộm mà còn la làng. Bản tính chứng nào tật đó chỉ biết đổ thừa thì giỏi. Việc dâng trà có độc cho thái tử, không phải do công chúa làm sao? Huynh muội mà làm như thế à…”
Hi Dư quát lên một tiếng thật to, cầm lấy cái ghế lên đập. Du Chan thấy nàng đã tức đến phát tiết, liền đứng dậy tránh né nhanh nhậy. Cái ghế đập xuống đất tan tành, cả phòng trở nên tán loạn vì hai người. Du Chan liên tục tránh né, hét lên:
“Đã trộm đồ rồi còn đánh người! Không có lương tâm gì cả!”
Hi Dư đuổi đánh hắn đến bầm dập, Du Chan cứ kệ để yên cho đánh luôn rồi vô tình chiếc trâm cài rơi từ tay áo của Hi Dư xuống đất. Hắn vội nhặt lấy, la lớn:
“Ta đã bảo công chúa ăn trộm mà.”
Trùng Dương ngồi bật dậy khi thấy trầm cài đó, thì thào: “Cái đó không phải của Tiểu Dao sao?”
Trong lúc tán loạn, có nữ hầu từ tốn đi vào nhẹ giọng nói:
“Quận chúa tới dâng trà thưa thái tử!”
Hi Dư không kiềm chế nỗi cơn tức cứ thế đánh tơi tả Du chan, cho đến khi có bàn tay của một cô gái trong bộ y phục màu hồng sữa kia vội vàng cản lại:
“Công… công chúa có gì từ từ nói chuyện.”
Trùng Dương ngạc nhiên nói: “Tiểu Dao, nàng đến rồi…” rồi đi lại kéo tay Hi Dư ra chỗ khác.
Ngọc Dao cúi người đỡ Du Chan đứng dậy, vén gọn tóc và chỉnh chu lại phục trang cho hắn. Nàng ôn tồn nói:
“Hoàng tử đừng quậy nữa… Ta cho huynh viên kẹo đào này, không phải huynh thích ăn lắm sao…”
Nàng lấy viên kẹo đào đưa cho hắn, hắn như đứng đờ ra độ mươi giây. Tim hắn nhói lên từng cơn đến co thắt lồng ngực, ánh mắt hiện rõ nỗi đau thương trong sâu thẳm.