CHƯƠNG 1: Thế giới mới
“Từ rất lâu về trước, lâu đến nỗi người ta không biết chính xác là khi nào, các vị thần vì để bảo vệ những đứa con của mình khỏi quỷ dữ đã ban cho chúng một món quà. Đó là một quả cầu ánh sáng, sức mạnh ma pháp toả ra từ quả cầu sẽ giúp con người đẩy lùi được bóng tối. Nhưng...
'Ánh sáng của hạnh phúc càng chói mắt thì cái bóng của bất hạnh mà nó hắt xuống lại càng đậm màu hơn' - Ruka Kosaka.
Hào quang huyền diệu của quả cầu đã dấy lên lòng tham và dục vọng. Loài người bắt đầu nổi dậy tự chém giết lẫn nhau với ý muốn chiếm lấy quả cầu ánh sáng cho riêng mình. Họ tranh giành với nhau suốt hàng thế kỷ, tưởng như giống loài đang trên bờ vực diệt vong.
Món quà đáng lý phải là phước lành cho nhân loại, đại diện cho hoà bình thì nay lại thành nguyên nhân dẫn đến chiến tranh đẫm máu. Ánh sáng thuần khiết đã bị vấy bẩn, qủa cầu chỉ còn có thể phát sáng một nửa, nửa mặt cầu còn lại bị bóng tối chiếm giữ. Lo sợ quỷ dữ sẽ cướp lấy quả cầu, các vị thần đã đưa món quà ma pháp này đặt lên trời cao để không ai có thể chạm tới nó. Đó cũng là ân huệ cuối cùng mà các vị thần ban cho những đứa con ngu xuẩn của ngài.
Từ đó vào buổi sáng, quả cầu ma pháp sẽ toả ánh sáng rực rỡ để chở che bao bọc con người. Còn khi về đêm nửa kia của quả cầu sẽ lộ ra, loài người sẽ phải lo sợ mà chạy trốn. Vì đó là lúc quỷ dữ xuất hiện và trò đi săn bắt đầu”.
- Vậy ra quả cầu lúc ban ngày là mặt trời sao?
- Đúng vậy!
- Còn ban đêm thì gọi là mặt trăng?
- Đúng luôn!
Gấp lại cuốn truyện cổ trong tay, tôi đứng dậy vươn vai nói với lũ trẻ:
- Được rồi mấy đứa, nghe xong truyện rồi thì về nhà đi!
Đám nhóc nghe vậy liền láo nháo làm nũng. Đứa thì níu váy, đứa thì cầm tay tôi, vừa lay vừa bĩu môi:
- Không chịu đâu! Chị Emma kể thêm một câu chuyện nữa đi. Em muốn nghe tiếp.
- Đúng đó chị, đọc thêm đi mà. - Một đứa khác nói chêm vào.
Làm sao mà dỗ nổi mấy cô cậu con giời này! Tôi khẽ thở dài ngán ngẩm:
- Nhưng hết truyện rồi. Sao chị kể tiếp được? Mấy em mà không về, cha mẹ ở nhà sẽ lo đó!
- Huhu không biết đâu, bọn em muốn nghe nữa hà!
Một đứa trong nhóm bắt đầu vờ khóc mít ướt, những đứa còn lại thấy vậy cũng làm theo. Cái tụi quỷ nhỏ này, khôn lỏi là giỏi, còn biết lấy nước mắt ra hù người lớn nữa chứ. Đúng là đáng sợ. Hết cách, phải dùng chiêu cuối rồi. Tôi cúi thấp người xuống, vẻ mặt nghiêm trọng nhìn vào mắt từng đứa, trầm giọng bảo:
- Thôi mau về nhà ăn tối, mai lại ra nghe tiếp. Nhìn kìa, quả cầu ánh sáng đang dần chuyển sang nửa mặt kia rồi.
Nói xong tôi chỉ tay về hướng mặt trời ửng hồng đang lặn dần phía sau sườn núi. Lũ trẻ con hiếu kì nhìn theo, đôi mắt mở to tròn, long lanh như vừa nhìn thấy gì lạ lắm. Tôi dí mặt tới càng gần bọn trẻ, đưa tay lên vờ như giơ móng vuốt, làm mặt xấu rồi nói vài câu hù doạ:
- Còn không về nhanh? Lát nữa khi ánh sáng tắt, quỷ dữ sẽ đi ra ăn thịt tụi em… Grừ!
Tôi cố tình “gầm gừ” thật to, đám nhóc nghe vậy sợ hết hồn, rụt cổ, ba chân bốn cẳng chạy thẳng về nhà. Có đứa còn vừa chạy vừa la làng: “A…chạy mau, chạy mau, quỷ sắp tới rồi! A…!”. Ha ha, mấy cái đứa này, cứ phải để chị ra tay, tụi em còn non lắm! Tôi cười thầm trong bụng, nhìn theo bóng chúng đang chạy khuất dần phía xa.
Quỷ đi săn hả? Tôi lại cầm cuốn truyện cổ trong tay lên, nhìn một lượt bìa truyện. “Hai nửa thế gian” - cuốn truyện này tôi mượn của bà Ria, một hàng xóm thân thiện của tôi. Bà ấy thích sưu tầm sách cổ lắm. Mà không. Phải nói là nghiện mới đúng! Nhà của bà ấy có hẳn một căn phòng riêng để đựng sách. Lần đầu bước vào đó tôi đã bị choáng ngợp. Căn phòng chứa hàng trăm cuốn sách được chất đầy kệ, những cái kệ đụng trần không khác gì thư viện trung ương. Tôi tự hỏi bà Ria đã đọc hết số sách đó chưa nhỉ? Đúng là đáng nể thật!
Bà Ria quý sách còn hơn vàng nên mỗi lần mượn sách bà lúc nào dặn tôi: “Giữ sách cho kĩ. Nhớ là không được làm cong bìa, trang sách cũng không được gấp nếp. Không thì ta sẽ không cho con mượn nữa!”. Ngày nào tôi còn giữ sách, cứ gặp tôi là bà sẽ lại nói câu đó. Tôi biết bà rất yêu sách, nên tôi luôn giữ chúng cẩn thận. Mà tôi hiểu vì sao bà Ria lại kỹ tính như vậy, vì thật sự sách của bà rất hay và chúng cũng rất hiếm nữa.
Tôi đã mượn sách ở chỗ bà Ria nhiều lần rồi, nhưng cuốn này là cuốn tôi thích nhất. Vì sao hả? Tại vì nó thực tế, nó không huyễn hoặc người đọc. Thành thật mà nói, đa phần những cuốn sách mà tôi đọc từ trước tới giờ đều đề cao con người quá mức. Nào là con người là những đứa con của các vị Thần, chúng ta đại diện cho công lý…Rồi thì ác quỷ luôn gieo rắc cái ác, chúng xấu xa và kinh tởm. Tôi không nói những điều đó là sai, nhưng ý tôi là, lúc nào cũng phải như vậy sao? Một bức tranh đen trắng rõ ràng như thế có thật ngoài đời không? Nhưng cuốn “Hai nửa thế gian” này thì khác. Nó nhắc tới lòng tham và dục vọng của con người. Rõ ràng, nếu như loài người không tranh giành nhau quả cầu ma pháp thì sẽ không có màn đêm cho lũ quỷ xuất hiện. Đó mới là sự thật! Con người không cao thượng và cũng không đẹp đẽ chút nào. Lẽ tự nhiên thôi, tới món quà của Thần còn có hai mặt sáng - tối, huống chi là con người.
Tiếng chuông nhà thờ vang vọng đánh thức tôi khỏi những nghĩ suy. Mới đó mà đã hết ngày rồi. Hôm nay tôi lên núi hái thảo dược, trên đường về thì bị tụi nhỏ trong xóm kéo lại, nhất quyết đòi tôi đọc truyện cho nghe. Chịu thôi! Ai bảo tôi kể hay quá làm gì?! À đúng rồi, tôi là Emma, chỉ Emma thôi, không có họ, vì tôi là trẻ mồ côi. Từ nhỏ tôi sống trong nhà thờ cùng các sơ. Nhưng khi đã có thể tự chăm sóc bản thân, tôi quyết định dọn ra ở riêng, đến một thành phố khác sinh sống. Không phải vì tôi không thích ở nhà thờ, các mẹ luôn đối xử với tôi rất tốt, đó là gia đình duy nhất của tôi. Chỉ là…tôi thấy còn rất nhiều thứ tôi chưa biết ở thế giới rộng lớn ngoài kia. Tôi muốn đi thật nhiều nơi, học thật nhiều thứ, muốn được tận mắt chiêm ngưỡng hết mọi vẻ đẹp trên lục địa này.
Thấy lý tưởng của tôi thế nào? Rất tự do phải không? Nhưng hiện tại để làm được điều đó, phải có tiền trước đã! Cho nên tôi xin vào làm ở một phòng bệnh, tiền lương mỗi tháng ngoài sinh hoạt phí ra, tôi sẽ tiết kiệm, tích góp từ từ. Mà…nói sao ta? Ờm…phòng bệnh tôi làm có hơi khác một chút. Cũng là chữa bệnh, nhưng…chúng tôi…không chỉ chữa bệnh cho con người.
Tôi ngước nhìn bầu trời tĩnh lặng buổi chiều tà, không một gợn mây, chỉ có chút gió khẽ lay đưa dịu nhẹ. Những tia nắng vàng vọt đang cố bấu víu lại trên thảm trời rộng lớn, mặt trời ngại ngùng đỏ ửng núp bóng dần phía sau núi đồi. Nền trời chuyển dần sắc cam, pha thêm chút màu tràm, cứ thế đậm dần tựa một thiếu nữ đang trưởng thành. Vì là hoàng hôn nên mới đẹp vậy sao? Không biết ở những nơi khác, hoàng hôn có như vậy không? Hay là đẹp theo kiểu khác?
“Hoàng hôn dần tàn, ánh nắng cũng theo đó mà yếu ớt dần đi
Mặt Trời đi ngủ, Mặt Trời bỏ lại thế giới để màn đêm vây kín
Mặt Trời bỏ lại tôi…với nỗi nhớ đến xót xa.”
Đó là bài thơ tôi đọc được trong sách, một bài thơ rất hay về hoàng hôn. Dù tôi cũng không hiểu tại sao tác giả lại miêu tả hoàng hôn buồn đến thế. Nó đẹp như vậy mà! Không phải người ta bình thường sẽ vui vẻ hay phấn khích mỗi khi nhìn thấy thứ gì đó xinh đẹp sao? Mà thôi, tôi cũng đâu phải nhà thơ, tiếc nhỉ! Đúng là có quá nhiều thứ trên thế giời này mà tôi chưa biết. Tôi cắp chiếc giỏ tre cũ bên trong chứa đầy thảo dược được hái lúc sáng. Quay về thôi, không chú John lại la làng lên mất.
Thành phố Beatrix - Thành phố tôi đang sống cũng không hẳn là sầm uất, nhưng nó cũng khá lớn và nhộn nhịp hơn vùng thôn quê. Đi thêm vài con phố nữa, băng qua đài phun nước trung tâm, vào trong con đường treo đầy biển hiệu, phòng bệnh của tôi ngay đó, từ đầu đường đi qua bốn căn nhà là tới. Nói đơn giản vậy thôi, chứ lúc mới tới tôi cũng bị lạc mấy lần. Đó là lúc hai năm trước thôi! Bây giờ, từng đường lớn lối nhỏ của thành phố này tôi thuộc nằm lòng. Mù đường thì sao mà khám phá thế giới được?!
Tôi mở cửa, vui vẻ bước vào, mặt mày rạng rỡ:
- Chào chú John!
Nhưng đáp lại câu chào phấn khởi của tôi là tiếng kêu rên đau đớn. Chú John mặt trắng bệch, người dính đầy máu, trán lấm tấm mồ hôi, trên tay còn bê chậu nước ấm. Chú nhìn tôi rồi vội vàng nói:
- Mau, vào giúp chú một tay!