Thế là hết những tháng ngày hè tự do tự tại. Kết thúc những trưa nắng chang chang muốn bể đầu trèo leo hái ổi trộm xoài. Mọi thứ lại trở về với hai chữ “Tựu Trường” hay còn gọi là khai giảng.
Năm học mới bắt đầu, bọn trẻ trong xóm đua nhau đi mua tập vở, sách bút mới. Sắm sửa tươm tất để mọi thứ thật đẹp đẽ, chuẩn bị cho năm học đầy triển vọng sắp tới.
Trẻ con đôi khi nghĩ “sao cũng được” còn người lớn thì không đơn giản như vậy. Phải là may đồ mới, hai cái áo trắng là tối thiểu, hai cái quần dài xanh đen, thêu phù hiệu cho thật đẹp đẽ và kì công.
Đôi khi tôi không hiểu tại sao phải mua mới, tụi tôi ít khi đòi hỏi lắm nhưng phụ huynh thì dường như không thể chịu được khi con cái mình thua kém với bạn bè đồng trang lứa.
Người làm cha làm mẹ có áp lực quá không khi bản thân mình thì “sao cũng được” còn đứa nhỏ ở nhà thì phải thật “sang - xịn - mịn”!
Mẹ tôi, người phụ nữ lực điền quanh năm trồng lúa nuôi cá, chẳng biết đến một cái áo mới, một đôi dép lành là như thế nào. Vậy nhưng, chẳng năm nào mà tôi không có đồ mới hay áo đẹp để đi học.
Lắm lúc tôi thấy mẹ tôi quá cực, tôi nói:
“Thôi năm nay con không may áo mới đâu, áo năm ngoái còn trắng chán. Tẩy lại là được rồi mà… Thay vào đó hay mẹ cho con ít đồng dẫn tụi thằng Lỳ đi chơi tạt lon lấy lá bài về được không?!”
Có vậy thôi mà mẹ tôi xách chổi rượt tôi khắp nhà. Rõ là tiền để mua mấy lá bài hình thù kì quái ấy rẻ hơn nhiều so với chiếc áo mới phải may. Người lớn chẳng biết tính toán gì cả, nghĩ mà chán nản, buồn hết cả buổi ngày hôm ấy.
Tôi vốn nghĩ nhà tôi nghèo, nhưng dường như nhà con Mi còn nghèo hơn. Buổi khai giảng nó không mặc áo mới, vẫn là cái áo cũ dính mực tím năm ngoái trên người, trên tay áo vẫn còn vết loang cũ không tẩy hết được.
Tôi xích cái ghế nhựa nhỏ xíu lại gần nó hỏi:
“Ê Mi, sao không đổi áo đi, cái này cũ quá rồi!”
Tuổi nhỏ vô tư, tôi không hiểu mình đang vô ý sát muối vào tâm hồn mong manh ấy.
Con Mi trả lời với đôi mắt ráo hoảnh:
“Nhà tao không có tiền, cha tao đem tiền đi mua rượu uống hết rồi!”
Nghe đến khúc này, tôi chỉ biết “Ờ” một tiếng cho có rồi đánh lái qua chuyện khác. Tôi đủ hiểu trong hoàn cảnh này, không nên hỏi thêm điều gì nữa.
Tôi hỏi con Mi về số phận những con bướm bằng cánh hoa phượng ra sao rồi?! Tôi không được khéo tay như nó, dù làm bướm từ hoa phượng rất dễ nhưng với tôi, dường như đó là một thử thách.
Con Mi lấy từ cặp nó ra một cuốn tập, khoe bên trong có thật nhiều bướm khô từ hoa phượng. Nhìn thật thích. Tôi nài nỉ xin một con làm kỉ niệm, may mắn với độ dẻo miệng của mình nó đã mủi lòng. Tôi chọn ngay con to nhất, nhẹ nhàng đem cất vào cuốn tập mới mua sáng nay, ra vẻ nâng niu khiến con Mi cười mỉm hài lòng.
Thế là xong, hai đứa đã thành công quên đi vụ chiếc áo cũ dính mực của con Mi. Nụ cười trên môi nó lại tỏa nắng như ngày thường.
Như các bạn cũng biết, khai giảng thì thầy cô ở trên nói chuyện của thầy cô qua tờ giấy soạn văn dài ngoằn, đọc từ người này đến người khác. Còn dưới này, mạnh đứa nào đứa nấy nói chuyện của chúng nó. Hầu như chẳng được mấy đứa chăm chú lắng nghe từ đầu đến cuối.
Có chăng thì chắc mấy đứa ngồi ở hàng đầu, khó hoạt động nên mới buộc lòng giả bộ lắng nghe. Còn phần đông, nhất là tụi ở cuối hàng thì đứa ăn vụng, đứa tụm năm tụm ba mà tán dóc. Có đứa chu đáo hơn đem hẳn cuốn tập mới, khai trương bằng trò chơi cờ ca-rô với chữ X và O huyền thoại tuổi học trò.
Ngày đầu đến trường sau ba tháng hè đi quậy loi nhoi, đứa nào cũng ngáp ngắn ngáp dài vì hôm nay phải dậy từ sớm để chuẩn bị.
Có đứa thì quên tập quên viết, có đứa thì quên chai nước được chuẩn bị sẵn ở nhà… Có đứa quên luôn mình tên gì khi thầy cô gọi lên phát biểu ý kiến, bởi đang bận say sưa với giấc ngủ vội nơi cuối lớp!
Tùng… Tùng… Tùng… tiếng trống trường đủ lớn để đánh thức mấy đứa đang ngáy ngủ. Vẻ mặt vui sướng của bọn trẻ tụi tôi khi nghe dấu hiệu hết tiết khiến giáo viên lắc đầu ngao ngán.
Vậy là được nghỉ giải lao mười lăm phút. Tôi tranh thủ chạy qua lớp của mấy đứa còn lại, hỏi thăm tình hình ngày đi học đầu tiên có gì mới lạ?!
Thằng Lỳ vẫn cứ thái độ điềm nhiên với cuộc đời, tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. Hỏi gì tới nó cũng đáp gọn có một câu:
“Bình Thường”!
“Thiệt, hên mày là hàng xóm nên mới chơi chung được với tao chứ mày mà không gần nhà thì chắc còn lâu tao mới nói chuyện” - À đây là suy nghĩ trong tâm trí của tôi thôi chứ cũng không dám nói ra. Mắc công nó buồn rồi hờn dỗi chia rẽ nội bộ nữa.
Đến lớp con Mi thì không thấy nó đâu, hỏi ra mới biết con nhỏ đã đi qua lớp thằng Tú thám thính tình hình. Biết vậy tôi ghé qua thằng Tú trước cho đỡ mắc công.
Tạt qua lớp thằng Tú thì thấy hai đứa nó đang nói cái gì rất vui vẻ. Thấy tôi từ xa đi lại, tụi nó ngoắc tay lia lịa, ánh mắt sáng trưng như thể đang có gì hay ho lắm phải kể gấp. Sẵn tính nhiều chuyện, tôi chạy lại như một cơn gió hỏi lớn:
“Vụ gì tụi bây?!”
Thằng Tú cười hề hề trình bày:
“Ê, mai chơi tạt lon hông mạy?!”
Rồi tới công chuyện. Sao nó hỏi cái câu nhạy cảm ấy vào lúc này, mới hôm qua tôi xin mẹ tiền mua mấy lá bài chơi trò đó mà có được đâu! Giờ lại bị gợi vào nỗi đau, chán thiệt chứ.
Đang mãi nghĩ ngợi chưa kịp trả lời thì thằng Lỳ từ đâu chạy đến, vỗ vai tôi cái bịch làm hết hồn. Chút nữa là tim tôi rớt ra ngoài không kịp lụm.
Thằng Lỳ tuyên bố luôn với tụi con Mi và thằng Tú:
“Mai chia phe tạt lon đi, tao với con Dung một đội, hai đứa bây một đội. Tới mùa này mà không chơi tạt lon ăn bài thì đi học làm gì nữa?!”
Tôi khều khều tay thằng Lỳ, nháy nháy mắt lắc đầu, ý gợi cho nó hiểu tôi không có lá bài nào để góp vô chơi. Không có quỹ đen lúc này để mua mấy lá làm vốn thì đúng là một cái tội.
Nhưng thằng Lỳ vẫn quả quyết, nhìn tôi cười đầy tự tin. Mắt nó kiểu như nói: Yên tâm, có tao mà mày lo gì!
Con Mi với thằng Tú chỉ đợi có thế, gật đầu cái rụp. Con Mi còn mạnh miệng hơn:
“Ok, mai tao đem hết vốn ra chơi với mày!”
Thằng Tú đứng phía sau hậu thuẫn:
“Khô máu với tụi bây luôn!”
Ấy chà, con Mi lúc này đúng là như hổ mọc thêm cánh.
Mười lăm phút trôi nhanh còn hơn cách chúng tôi trộm ổi bẻ xoài nhà hàng xóm. Tạm tách nhau ra, mỗi đứa về một lớp. Lại sắp tới tiết Toán nhưng hôm nay người dạy không phải là cô giáo Ngọc, nghe đâu là một giáo viên mới về trường, hình như là thầy nào đó tên Thành.
Tôi về lớp, vừa ổn định chỗ ngồi thì lớp trưởng hô to:
“Cả lớp, đứng!”
“Chúng em chào thầy!” - Tiếng cả lớp đồng thanh nghe thật vui tai.
“Thầy chào các em, các em ngồi xuống!” - Giọng thầy Thành lên tiếng, giọng khá êm tai.
Sau đó thầy giới thiệu mình từ đâu chuyển đến đây, họ tên là gì, bao nhiêu tuổi, nhận dạy lớp nào và bày tỏ niềm vui khi được gặp chúng tôi.
Vậy là xong phần chào hỏi. Thầy Thành chịu khó khi cả lớp ồn ào mà không nhắc nhở, chỉ nhẹ nhàng ghi tên những đứa nào nổi trội trong việc bàn luận sôi nổi vào sổ đầu bài. Khác hoàn toàn với cô giáo Ngọc dễ thương của tụi tôi, thầy thuộc tuýp người nói ít làm nhiều, hoặc làm mà không nói!
“Ê Dung, tao nghe đồn thầy là người yêu cũ của mẹ mày hả?!” - Đứa bạn cùng lớp ngồi ngay sau lưng tôi thỏ thẻ qua tai, vừa đủ nghe nhưng cũng khiến tôi chột dạ.
“Tào lao quá má, lo học kìa, bị kêu tên bây giờ!” - Tôi gạt phăng lời nó vừa nói và cố tập trung chép bài trên bảng.
Chợt tôi nghe âm thanh vừa quen vừa lạ gọi tên mình:
“Em nào tên Dung, Cao Dung?!”
Một chút rụt rè giơ tay, tôi hướng mắt về phía tấm bảng đen trước mặt, nuốt nước miếng, giọng lạc đi trả lời:
“Dạ… là em!”
Thầy Thành nhìn tôi rồi nói, lúc này thật ra thầy nói nhiều lắm nhưng đầu óc tôi cứ mụ mị dần, chẳng nghe được gì nhiều ngoài hai từ:
“Lên bảng!”
Tèo téo teo… Tôi chẳng hiểu mình số nhọ hay số hưởng mà học đúng ông thầy là người yêu cũ của mẹ mình. Tôi cũng chẳng biết bài toán trên bảng giải thế nào nhưng ai mà quan tâm chứ, tôi chỉ quan tâm rằng từ nay về sau, giờ toán có lẽ tôi phải trốn học mất.
Lê từng bước một cách nặng nề, dù rằng từ bàn tôi lên tới bảng là một khoảng cách tầm mười bước chân nhưng với tôi, có lẽ lúc này khoảng cách ấy xa xôi và khó khăn như cái việc tôi xin tiền mẹ đi mua mấy lá bài vậy.
“Nhanh lên em, các bạn đang đợi!”
“Dạ!” - Ngoài “dạ” ra tôi còn biết nói gì nữa bây giờ.
Lên đến bục giảng, ở khoảng cách này, dường như tôi bị mù tạm thời, khiếm thị đột xuất. Những con số trên tấm bảng đen như kiểu đang cố giao tiếp với tôi bằng một thứ ngôn ngữ ngoài hành tinh nào đó. Tôi không biết chúng và chúng cũng không biết tôi.
Đứng tồng ngồng tầm năm phút, có lẽ thầy cũng đã dần mất kiên nhẫn. Bản thân tôi lúc này toàn thân như tê liệt, không cử động được. Miệng cứng đờ, tay chân run rẩy. Không ngờ mới cách đây vài phút tôi còn là một cô bé bình thường mà sau khi nghe tin thầy dạy toán là người yêu cũ của mẹ thì lại trở thành người khuyết tật thế này. Có lẽ chỉ là mơ, một cơn mơ không thể tỉnh!
Thầy Thành tiến đến vị trí tôi đứng, nhỏ nhẹ hỏi:
“Em làm được không?!”
“Dạ…” - Tôi ngập ngừng rồi lắc đầu.
Sau lưng tôi, những đứa khác đang cười cợt. Thầy lên giọng khiến cả lớp im bặt:
“Các em không được cười bạn. Sau này chưa chắc các em giỏi hơn bạn. Chúng ta đều sẽ sai, chỉ là chưa bị phát hiện. Lần này thầy sẽ cho qua, nhưng lần sau bài nào các em đã được học thì nhất định phải làm được nhé!”
“Dung, em về chỗ đi. Hôm sau thầy sẽ gọi lại.”
Tôi dạ một tiếng rồi chạy như bay về chỗ ngồi. Mặt đỏ bừng vì quê và sợ. Tôi hay mắc cỡ, cái gì cũng mắc cỡ được. Bị ai chọc cũng mắc cỡ, té cũng mắc cỡ, trả bài cũng mắc cỡ rồi không làm được bài thì khỏi phải nói, càng mắc cỡ.
Từ lúc tôi bị quê, tôi bắt đầu chăm chú hơn phần giảng của thầy Thành. Quan sát kĩ thì thầy cũng có nét điển trai và cách cư xử với học trò cũng nghiêm túc, chịu khó giảng đi giảng lại cho đến khi tất cả đều gật gù hiểu bài.
Chợt lòng tôi dấy lên niềm thắc mắc:
“Sao thầy và mẹ tôi lại chia tay? Nếu hai người ấy đến với nhau thì tôi là con thầy?!” Ui… Tôi vội lắc đầu, xua đi mấy dòng suy nghĩ tào lao này.
Học đến năm giờ chiều thì tiếng trống trường cũng điểm. Hôm nay hai tiết toán cuối, đủ khiến tôi kiệt sức.
Tôi cần nạp năng lượng gấp, không biết chiều nay mẹ cho tôi ăn món gì nhỉ?! - Lòng tôi khấp khởi tò mò khi nghĩ về mối bận tâm không của riêng ai này.
Đang soạn tập vở bỏ vào cặp thì thầy Thành lên tiếng, gương mặt lúc này có vẻ đã giãn ra, một nét mặt khiến tôi cảm thấy khó hiểu. Thầy hỏi:
“Mẹ em vẫn khỏe chứ?!”
Một chút ngạc nhiên, cây viết trên tay tôi rớt xuống đất cái “bụp”!
“Dạ… khỏe!”
Đầu tôi lúc này nảy số nhanh:
- Vậy là đúng rồi. Thầy đúng là người yêu cũ của mẹ. Kì này có khi mười điểm toán cuối kì chứ chẳng đùa. Ê mà có khi dưới năm cũng không chừng nghen.
Tôi cuối xuống lụm cây viết, theo lý thì tôi sẽ hỏi mấy câu đại loại như: Sao thầy biết mẹ em… Thầy quen mẹ em hả?… Nhưng tôi thông minh mà, không cần hỏi tôi cũng đã biết. Vậy nên tôi chọn cách chuồn lẹ cho an toàn. Chuyện người lớn, nên để cho người lớn giải quyết.
Tôi thưa dạ xin phép về trước. Ở lứa tuổi của tôi, nào biết yêu đương là cái quái gì, cảm giác thất tình nó đau khổ dai dẳng ra làm sao?! Điều tôi quan tâm lúc này là mai chơi tạt lon với tán dép cùng “cặp đôi song sát” sẽ thắng hay bại, có tin hoàn toàn vào khả năng của thằng Lỳ được không?!
Ra đến cổng trường, có tiếng quen thuộc gọi giật tôi lại:
“Ê, làm gì ra trễ vậy mạy, mỏi giò tao muốn chết!”
“Ủa Lỳ, sao mày chưa về?!” - Tôi quay lại nhìn thằng lỳ thắc mắc hỏi.
“Thì tao đợi mày. Đi chung về chung.” - Thằng Lỳ luôn là đứa nói ít làm nhiều, đôi khi cũng cảm động muốn rớt nước mắt vì cái tính anh hào của nó.
Vậy là hai đứa tôi cùng về nhà. Trên đường đi tôi kể cho nó nghe về việc hôm nay mình có giáo viên toán mới, kể cho nó biết cái bài toán ngu ngốc trên bảng đen lúc nãy giải ra sao để ngày mai, đến phiên lớp nó học thì nó phát biểu lấy điểm.
Chúng tôi vẫn luôn trao đổi cùng nhau bài vở như thế, tạo cơ hội cho nhau để điểm số không quá tệ. Có những bài tụi tôi có hiểu gì đâu, vì chưa học mà nhưng vẫn cứ lắng nghe cách làm từ đứa còn lại, cố gắng ghi nhớ và xung phong vào ngày hôm sau.
Chẳng phải vì tụi tôi ham học cho mấy mà là vì nếu điểm thấp thì cái đội hình bốn đứa sẽ bị sớm tan rã. Nhiều lần phụ huynh đã cảnh báo, chơi chung mà học không tốt thì cấm chơi cùng.
Vậy là chỉ còn cách giúp nhau trong việc học thì mới có thể “bên nhau trọn kiếp”.
Tôi huých vai thằng Lỳ hỏi nó về phi vụ ngày mai.
“Ê, tao không có lá bài nào cả, mai chơi lỡ thua sao chung cho tụi kia?!”
Thằng Lỳ vẻ mặt tự tin, móc trong cặp nó ra một xấp lá bài đủ màu đủ hình từ đời nào. Hàng xịn nha, vẫn còn mùi giấy cứng thơm luôn. Tôi ngạc nhiên trố mắt hỏi nó:
“Đâu ra vậy mạy, nhiều dữ!”
“Tao chơi ăn tụi lớp trên. Mới hồi sáng này luôn!” - Thằng Lỳ tự hào kể lại chiến công của nó.
“Hèn gì mày tự tin rủ cặp đôi song sát chơi. Vậy mai nhờ mày, chứ tao không có tiền cũng không có lá nào đâu!” - Tôi mắt hơi rũ xuống, nói theo kiểu chán đời.
Dúi vô tay tôi tầm đâu đó hai chục lá bài còn mới cáu, nó nói:
“Nè, cầm lấy mà chơi. Cứ yên tâm, có tao thì thế nào cũng thắng!”
Vậy là trên tay tôi đột nhiên có “vốn” để mai ăn thua với hai đứa kia. Từ một đứa “vô sản”, nhờ thằng Lỳ tôi đã có “tài sản”.
Cám ơn nó rối rít, tôi nâng niu từng lá bài bỏ vô cặp, đương nhiên đây là chuyện bí mật giữa tôi và nó. Bốn đứa chơi chung, nếu để bọn kia biết thì thằng Lỳ cũng phải chia cho tụi nó, vậy thì chẳng còn lại bao nhiêu cả.
Khoác vai nhau, nhảy chân sáo trên đoạn đường đầy sìn cùng mớ cỏ bông lao xiêu vẹo, hai chúng tôi cười nói rôm rả suốt cho đến lúc về nhà.
Nghĩ lại thì thằng Lỳ ngoài hờn dỗi cả thế giới ra thì chẳng bao giờ hờn dỗi gì tôi cả. Cũng vui.
Lòng tôi lúc này mong đợi vào cuộc tỉ thí ngày mai, nhìn qua thằng Lỳ nói lớn:
“Mai ăn sạch của tụi nó cho tao!”
“Nhất trí!” - Thằng Lỳ trả lời không do dự.
Thế rồi hai đứa về nhà với nụ cười không thể tươi hơn. Lần nào đi học cùng nó tôi cũng cười đau cả má. Giỏi nhất là bày trò, đúng như cái tên của nó: thằng Lỳ!